Dẫn nhập
30 năm kỷ niệm phong thánh cho 117 chân phúc tử đạo VN (ngày 19 tháng 6) và 30 năm ban hành tông huấn “Phẩm giá của người phụ nữ” (Mulieris dignitatem: MD ngày 8-12-1988). Cả hai biến cố diễn ra trong khung cảnh của Năm Thánh Mẫu. Tuần Tam nhật năm nay chúng ta mừng kỷ niệm tông thư MD, chú trọng đặc biệt đến các số 12-16, trong đó ĐTC trình bày các phụ nữ trong Phúc âm. Chúng ta không đi vào lý thuyết về phẩm giá của phụ nữ, nhưng chú trọng đến các khuôn mặt của những phụ nữ được gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu, được gọi đi theo Chúa từ lúc Người bắt đầu sứ vụ cho đến khi Người hoàn tất công trình cứu chuộc trên thập giá và phục sinh. Chúng ta sẽ không tưởng tượng điều gì mới lạ: tất cả đều được nói đến trong Phúc âm. Duy có điều là xưa nay các ông chỉ chú ý đến những người nam; bây giờ từ khi các bà nghiên cứu Kinh thánh thì sự hiện diện của các phụ nữ mới được chú ý. Trong Phúc âm, người ta đếm được hơn 20 nhân vật đã được gặp gỡ Chúa Giê-su, trong số đó vài cuộc gặp gỡ đã để lại dấu ấn quan trọng cho lịch sử đức tin. Chúng ta chỉ chú ý đến những người liên quan đến mầu nhiệm Vượt qua.
Bài 1: (Thánh lễ chiều thứ Năm Tuần thánh)
Người phụ nữ rửa chân cho Chúa
Người phụ nữ mời Chúa dự tiệc
Chúng ta bắt đầu ngay từ trong buổi cử hành bữa Tiệc ly chiều nay. Có phụ nữ nào hiện diện hôm ấy không? Tại sao Chúa không truyền chức linh mục cho các bà? Xin thưa rằng chắc chắn là hôm ấy các bà hiện diện, ít là để dọn bữa ăn. Còn chuyện truyền chức thì tạm gác qua một bên vì đây không phải là lúc tranh luận. Khi cử hành việc Chúa rửa chân cho các môn đệ trong bữa tiệc ly, chúng ta nhớ đến một phụ nữ đã rửa chân cho Chúa và một phụ nữ đã dọn tiệc đón Chúa. Cả hai quang cảnh đều được thánh Luca ghi lại, và trở thành đề tài cho bài suy niệm chiều nay.
1/ Người phụ nữ rửa chân cho Chúa (Lc 7,36-50)
Trong quá khứ, người phụ nữ này được đồng hóa với bà Maria Madalena. Thật ra đây là một sự sai lầm đáng tiếc, bởi vì móc nối với bà Maria Madalena được nhắc đến ở đầu chương 8 của Luca, “được trừ bảy quỷ”. Mặt khác, việc xức dầu cho Chúa cũng dẫn đến sự lầm lẫn với bà Maria chị em ông Ladaro (tạm gọi là Maria Betania). Ngày nay người ta biết rằng Magdala và Betania là hai thị trấn cách xa nhau hơn 100 cây số. Nói cách khác, người phụ nữ tội lỗi ở đây khác với bà Maria Madalena và cũng khác với bà Maria Betania.
Khung cảnh: Chúa Giêsu dùng bữa tiệc tại nhà ông Simon. Nói cho đúng, bữa tiệc này không mấy thân thiện. Những người đồng bàn đang xoi mói Chúa Giêsu (khác với bữa tiệc mà chúng ta sắp nói đến của hai chị em Marta). Dù sao, trong cuộc đời sứ vụ, Chúa Giêsu đã nhiều lần ăn tiệc với những người tội lỗi (thâu thuế), và đã gây nhiều tai tiếng: Người bị tố cáo là tay ăn nhậu (Mt 9,10-11; 11,19); khác với ông Gioan Tẩy giả, nổi tiếng là khắc khổ!
Để hiểu câu chuyện đang bàn, cần biết phong tục Rôma (và các đại gia Do thái cũng bắt chước), đó là ăn nằm (nằm trên bộ phản để ăn). Đang lúc ăn, thì một phụ nữ tội lỗi bước vào (không biết tên bà là ai, nhưng bà không phải là kẻ vô danh, bởi vì mọi người đều biết bà là gái làng chơi). Bà đi vào nhà cách đột ngột. Không ai mời mà cũng tới.
Điều quan trọng muốn nêu bật ở đây là thánh sử mô tả những cử chỉ của người phụ nữ qua 6 động từ (6 động từ tượng trưng cho 6 công việc tạo dựng?): đứng đàng sau, sát chân mà khóc, lấy nước mắt mà tưới chân, lấy tóc mà lau, hôn chân, lấy dầu mà đổ lên.
Chiều nay, chúng ta tưởng niệm việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Đây là một cử chỉ phục vụ: các đầy tớ rửa chân cho chủ (chứ không ngược lại). Nhưng đối với phong tục Do thái, việc rửa chân còn mang một ý nghĩa khác nữa: dấu hiệu của tình yêu, đặc biệt khi diễn ra giữa người nam với người nữ. Sau khi vua Đavit đã ăn nằm với bà Bersabe khiến cho bà mang thai, vua ra lệnh triệu ông Urigia chồng bà từ mặt trận về, và bảo ông đi rửa chân (1Sm 11,8). Nhưng ông không về nhà, và đến hôm sau ông đi ra mặt trận. Ở đây “rửa chân” có nghĩa là quan hệ vợ chồng. Bà Rút nằm dưới chân ông Boot suốt đêm, và hôm sau được ông nhận làm vợ (R 3,4-15).
Trong bối cảnh văn hóa ấy, áp dụng vào câu chuyện đang bàn, người phụ nữ rửa chân cho Chúa Giêsu bằng nước mắt và đổ dầu: cả hai đều là cử chỉ của tình yêu. Đối với những người hiện diện, thì đó là cử chỉ ái ân, tội lỗi. Nhưng Chúa Giêsu lại nhìn bằng cặp mắt khác. Đó là những cử chỉ đón tiếp (mà ông Simon đã bỏ qua không làm), và nhất là của lòng biết ơn vì đã được tha thứ nhiều (“Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều”).
Đó chẳng phải là những tâm tình mà chúng ta cần có khi cử hành hy lễ Tạ ơn đó sao, tức là biết ơn vì đã được tha thứ?
Trong Tin mừng Luca, chúng ta đọc thấy dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện: một người Pharisiêu và một người thu thuế (Lc 18,9-14). Dụ ngôn ấy đã trở thành cụ thể nơi hai nhân vật trong câu chuyện này: ông Simon cho rằng mình là người công chính, phán đoán không những người phụ nữ mà kể cả Chúa Giêsu nữa. Thế nhưng ông lại bỏ qua những nghi thức tối thiểu nhất của việc tiếp khách. Còn người phụ nữ, bị coi là người mang nhiều tai tiếng, nhưng kỳ thực lại được nên công chính, được tha thứ, bởi vì bà đã yêu nhiều, hay đúng hơn bà đã cảm nhận tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Còn ông Simon thì đóng cửa trước lòng khoan nhân.
2/ Bữa tiệc tại nhà hai chị em Marta(Lc 10,38-42)
Như vừa nói trên đây, Chúa Giêsu nhiều lần nhận lời mời ăn tiệc, kể cả do người tội lỗi. Có lẽ Chúa không vui lắm tại bữa tiệc ở nhà ông Simon mà chúng ta vừa nghe, bởi vì nó chỉ là cơ hội cho nhiều người xoi mói bắt bẻ; nhưng mặt khác, phải nói là Người vui bởi vì đã mang lại ơn tha thứ cho người phụ nữ tội lỗi. Bây giờ chúng ta bước sang một bữa tiệc khác, và lần này chắc chắn là Người vui hơn, vì được đón tiếp bởi hai chị em Marta và Maria. Thực ra, có hai trình thuật liên quan đến cuộc viếng thăm nhà này: một trình thuật theo Luca, và một trình thuật trong Tin mừng Gioan. Lần này chúng ta chỉ dừng lại ở trình thuật của Luca, còn trình thuật của Gioan thì được gác lại chiều thứ bảy (những phụ nữ tuyên xưng đức tin).
Từ thời Trung cổ, người ta thường đưa câu chuyện này để so sánh giữa đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động, tượng trưng nơi hai bà Maria và Marta. Tuy nhiên, có lẽ đây không phải là chủ ý của Luca. (Nên lưu ý là trước đây, có người đồng hóa bà Maria Betania với bà Maria Magdala và người phụ nữ tội lỗi. Chúng ta đã nói rằng người phụ nữ tội lỗi không liên can gì với bà Maria Magdala, và cũng khác với bà Maria Betania; bởi vì Magdala nằm ở miền Bắc cách thủ đô Gierusalem khoảng 200 cây số, còn Betania chỉ là ngoại ô của thủ đô, cách trung tâm khoảng 3 cây số, tạm ví như Bảo Lộc với Gò vấp).
Điều thứ nhất nên ghi nhận là trong nhà chỉ có hai phụ nữ. Có lẽ là hai người độc thân. Quả là táo bạo khi họ mời Chúa Giêsu về nhà, bởi vì theo thói tục đời ấy, các bà phải lánh mặt khi có khách đến nhà (hơn kém cũng như ở Việt Nam xưa kia).
Điều thứ hai nên ghi nhận là câu chuyện mở đầu như thế này: “Đang khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Marta đón Người vào nhà” (câu 38). “Đang khi đi đường” nên hiểu trong văn mạch, từ cuối chương 9 (câu 51 trở đi), Luca mô tả sứ vụ của Chúa như là con đường lên Giêrusalem, nơi mà Người sẽ chịu tử nạn và phục sinh. Chúa không đi một mình, nhưng cùng đi với các môn đệ. Nhưng không rõ là các môn đệ có đi theo vào nhà không (Nên biết là Luca không kể ra tên làng: Bêtania là tên lấy từ Tin mừng của Gioan). Các ông mà đi theo thì chắc là ồn ào lắm!
Chúa vào nhà bà Marta, và hẳn nhiên là để ăn tiệc. “Bữa tiệc” khác với “bữa ăn thường”ở chỗ nào? Thường thì bữa tiệc có nhiều món (và món ngon) hơn bữa ăn thường. Ngoài đặc tính thịnh soạn, bữa tiệc cũng nói lên tính cách hân hoan. Chúng ta không gọi đám ma là bữa tiệc, cho dù ăn ngon mấy đi nữa! Dù sao, có lẽ đặc trưng của bữa tiệc đúng nghĩa là “tình bạn”. Hiểu theo nghĩa này, bữa ăn ở nhà ông Simon nói trên đây không phải là bữa tiệc; nhưng bữa ăn ở nhà bà Marta đáng gọi là bữa tiệc. Thế nhưng bữa tiệc này có vấn đề.
Đó là bà Marta lên tiếng phàn nàn vì cô em không chịu giúp bếp. Nên lưu ý là bà không trách thẳng cô em, mà lại nhờ Chúa nhắn lại cô em. Không ngờ Chúa lại bênh vực cô em. Tại sao? Nhiều lý do đã được đưa ra: 1/ Một lý do văn hóa. Thời ấy, các bà không được phép ra ngồi tiếp khách mà phải lẩn trốn trong phòng, hoặc là đi xuống bếp. Chúa Giêsu bênh vực bà Maria: phụ nữ cũng có quyền tiếp khách, và bàn chuyện nghiêm túc (như chúng ta sẽ thấy trong câu chuyện với phụ nữ xứ Samaria). Nói cụ thể hơn, trái ngược với phong tục Do thái, Chúa Giêsu chủ trương là các bà cũng có quyền được nghe lời Chúa. 2/ Lý do nhân bản. Khách đến nhà thì phải tiếp đón. Tiếp đón không phải bằng cách đãi các món ăn ngon nhất để trổ tài nội trợ, nhưng là nói chuyện với khách. Có lẽ bà Marta quên điều ấy. Ngược lại, bà Maria nhận ra vấn đề: đối với một người khách như Chúa Giêsu, thái độ đón tiếp nồng hầu nhất là lắng nghe Chúa dạy. Đừng quên rằng đây là một điểm mà Luca nhấn mạnh nhiều lần. Chẳng hạn như Đức Mẹ Maria được đề cao vì đã lắng nghe và nghiền ngẫm lời Chúa; đây mới là mối phúc thật sự, chứ mối phúc không tại chỗ đã cưu mang và cho bú mớm (Lc 11,27-28).
Mặt khác, chúng ta đừng nên đối chọi Maria với Marta, bởi vì đây Luca không có ý so sánh giữa đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động, nhưng là tác giả muốn nhắc lại rằng tất cả mọi hoạt động đều bắt nguồn từ chỗ lắng nghe Lời Chúa. Thực vậy, chúng ta rất dễ rơi vào nguy cơ là hoạt động để thỏa mãn một nhu cầu nào đó của mình, chứ không phải do lòng mến Chúa thúc đẩy. Đối lại cũng có một thứ nguy cơ khác, đó là chỉ nghiền ngẫm Lời Chúa nhưng lại không diễn tả thành lòng thương cảm với đồng loại. Vì thế có tác giả đề nghị là ta nên liên kết đoạn văn này với đoạn văn liền trước đó (Lc 10,29-37: dụ ngôn về người Samari nhân hậu: ông ta hiểu được bài học về sự thương người, còn các kinh sư thì chẳng chịu đem ta thực hành), để duy trì một sự quân bình giữa hai mối tình. Cả hai đều cần thiết: lắng nghe lời Chúa và phục vụ tha nhân. Có chăng là phần của Maria được coi là “không ai lấy đi được”, bởi vì, theo sự chú giải của một vài giáo phụ, sau này khi lên trời thì chỉ còn ngồi lắng nghe Lời Chúa thôi, chứ không còn người nghèo để phục vụ nữa. Đó là nói cách tuyệt đối, chứ trên thực tế, chúng ta vẫn còn sống dưới đất, cho nên vẫn còn cần phải lắng nghe lời Chúa và phục vụ. Và chúng ta cần khiêm tốn nhìn nhận rằng việc phục vụ lao tâm lao lực hơn nhiều.
Tóm lại, khi ôn lại hai câu chuyện của các phụ nữ nhân Thánh Lễ Tiệc ly, chúng ta học được bài học về sự biết ơn vì được tha thứ, cũng như bài học về việc lắng nghe Lời Chúa, để rồi diễn tả ra qua việc phục vụ anh chị em. Chúng ta đã nghe hoặc đã nói nhiều về những điều ấy, nhưng có lẽ chúng ta chưa thực hành bao nhiêu. Chúng ta cầu xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta, sức mạnh của Thánh Linh tình yêu.